Friday, 2024-04-19, 9:23 AM
Welcome, Guest
[ New messages · Members · Forum rules · Search · RSS ]
  • Page 1 of 2
  • 1
  • 2
  • »
Forum » Tin tức » Văn học » Vần và nhịp trong thơ Việt Nam đương đại (Khóa luận của SV Phạm Nữ Nguyên Trà)
Vần và nhịp trong thơ Việt Nam đương đại
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:36 PM | Message # 1
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
1.1.1.     Tổng quan thơ Việt Nam đương đại
Từ sự kiện cách mạng lớn là Đại hội Đảng lần VI (12/1986), đời sống văn
học nghệ thuật Việt Nam đã được thổi một luồng gió mới về không khí dân
chủ, tạo điều kiện cho sự cởi mở trong đời sống cũng như sự tự do sáng
tạo. Khái niệm thơ Việt Nam đương đại dùng ở đây được hiểu là thơ Việt
từ cái mốc Đổi Mới 1986 này.
Thơ ca từ những năm 1986 trở lại đây đang sải những bước chân mạnh mẽ trên con đường hiện đại hóa từ nội
dung đến hình thức với sự đa dạng về tư duy nghệ thuật, về khuynh hướng
thẩm mỹ cũng như về bút pháp và ngôn ngữ. Nhiều nhà thơ đắm mình trong
truyền thống, nhưng cũng nhiều nhà thơ có lối viết cách tân táo bạo theo
kiểu phương Tây. Chỉ riêng trong khoảng 1990-1994, đã có nhiều tập thơ
thu hút sự quan tâm của dư luận như Ba mươi sáu bài thơ (Lê Đạt – Dương Tường), Sự mất ngủ của lửa (Nguyễn Quang Thiều), Ngựa biển và Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng)... Tiếp theo đó là một loạt các sáng tác của các nhà thơ trẻ như KhátLinh (Vi Thùy Linh), Cỏ trắng (Ly Hoàng Ly), Nằm nghiêng (Phan Huyền Thư), Khí hậu đồ vật (Nguyễn Quốc Chánh),...
Thơ Mới trước đây chịu ảnh hưởng của thơ ca Lãng mạn, Tượng trưng Pháp đã
tạo ra một cuộc cách mạng thơ ca, thoát khỏi những sáo mòn khuôn thước
của truyền thống. Thơ ca hôm nay cũng với mong muốn bứt phá khỏi những
giá trị truyền thống, đã tiếp thu ảnh hưởng từ rất nhiều những trường
phái, khuynh hướng khác nhau: chủ nghĩa Tượng trưng Siêu thực, chủ nghĩa
Hiện sinh, chủ nghĩa Hình thức, chủ nghĩa Hậu hiện đại và mới đây nhất
là chủ nghĩa Tân hình thức. Song dù theo trường phái, khuynh hướng nào
thì chúng ta cũng nhận thấy một xu thế đang ngày càng được khẳng định và
mở rộng trong thơ Việt Nam hôm nay là: tính hiện đại và tư duy nghệ
thuật Hậu hiện đại – một trào lưu tư tưởng và văn hóa có tính toàn cầu.
Chính những ảnh hưởng đó đã làm mới thơ Việt Nam đương đại cả về nội
dung lẫn hình thức.
Xã hội ngày càng phát triển và thế giới ngày càng “phẳng” hơn, chính vì thế mà mối quan tâm của con người ngày càng
phong phú và đa dạng hơn. Thời gian để tâm vào thơ không còn nhiều. Chưa
kể cách đọc thơ hiện nay của quần chúng còn quá hờ hững và phụ thuộc.
Họ phụ thuộc vào các nhà phê bình và báo chí, họ chỉ đọc những tác phẩm
đã được giải thưởng hay được báo chí lên tiếng vì một scandal nào đó, vì
thế, độc giả đang dần mất những nhận định chủ quan.
Nhìn về sự phát triển mạnh mẽ của thơ đương đại Việt trong gần 30 năm qua
(1986-2012), và kể từ khi văn chương mạng ra đời (2002), có thể khái
quát sự phát triển thơ Việt theo bốn dòng chính:
- Thơ truyền thống có giao thoa với hiện đại, có phần mang hình thức cổ điển với nội
dung đương đại: Ý Nhi, Phạm Thị Ngọc Liên, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo,
Lâm Thị Mỹ Dạ,...
- Thơ Tân hình thức (new formalism poetry), là phong trào thơ do Khế Iêm khai sinh ở Mĩ vào năm 2000 (chủ yếu đăng ở
Tạp chí Thơ, Hoa Kì), truyền bá sang Việt Nam, được các thi sĩ không
chính lưu (như nhóm Ngựa Trời, nhóm Mở miệng,...) ở TP. Hồ Chí Minh tích
cực hưởng ứng, tạo không khí thơ sôi động một thời. Khế Iêm cho rằng,
Tân hình thức trong thơ Việt có những đặc tính chính: cách nói thông
thường, vắt dòng, kỹ thuật lặp lại và tính kể chuyện. Tuy nhiên, thơ Tân
hình thức dường như khó được chấp nhận và bị dị nghị trên thi đàn Việt
Nam, họ đang đổi khác để tồn tại.
- Thơ Thị giác (visual poetry) trong đó thơ trình diễn (poetry performance) là một nhánh nổi bật. Về
kiểu thức này,có thể kể đến các tên tuổi sau: Dương Tường, Hoàng Hưng,
Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Vũ, …
- Thơ chịu ảnh hưởng của trào lưu thơ Hiện đại và Hậu hiện đại: được khơi
mào từ giữa thập niên cuối của thế kỉ XX và nở rộ cùng văn chương mạng
tiếng Việt. Nó có các đại diện tiêu biểu như Lê Đạt, Hoàng Hưng, Dương
Tường, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phan Huyền Thư...
Cùng với đó là sự phát triển của thơ mạng với Đặng Thân, Lê Anh Hoài,
Mai Văn Phấn, Bùi Chát, Khải Minh, Đỗ Quyên, Nguyễn Đức Tùng,... Các nhà
thơ này vận dụng nhiều thủ pháp tiếp nhận từ đồng nghiệp trên thế giới
để sáng tạo nhiều loại thơ chưa từng có mặt trong truyền thống thơ ca
Việt Nam trước đó: phỏng nhại, liên văn bản, vắt dòng, siêu hư cấu sử
kí, thơ phụ âm, thơ graphic, thơ thực hiện, thơ cụ thể, thơ phân thân,
thơ động tác, thơ tịnh tiến,...
Tuy phát triển theo nhiều dòng thơ, nhưng thơ đương đại vẫn mang những đặc điểm chính sau:

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:36 PM | Message # 2
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
a.      Về nội dung:
Cuộc sống xã hội nhiều thay đổi, ngổn ngang hơn với bao mối quan hệ phức tạp
đa diện, công chúng không còn ưa lối nói một chiều nữa, mà đòi hỏi lý
giải, cắt nghĩa nhiều dữ kiện của đời sống, nhận thức lại nhiều vấn đề.
Các nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích
ứng với những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn
tới sự thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ thuật thơ.
Thơ ca tự ý thức chính mình, không quay lưng với bất kỳ thể loại nào, vận động theo
hướng dân chủ, lấy tinh thần nhân bản và ý thức thức tỉnh cá nhân làm
cảm hứng chủ đạo, vận động cùng chiều với nền văn học thế giới. Đồng
thời, thơ ca khám phá cái tôi trên nhiều phương diện đời sống tình cảm,
đời sống bản năng, đời sống tâm linh.
Thơ ca thời kỳ này có xu hướng nhạt dần cảm hứng sử thi, chuyển hướng quan tâm đến số phận đời
tư, đời thường. Cái nhìn của các nhà thơ gần gũi với đời sống thường
ngày hơn nhưng giàu chất suy tư, là sự tỉnh táo của bề ngoài của một nỗi
đam mê lớn phía bên trong. Nhà thơ không phải là những người rao giảng
đạo đức hay minh họa cho một tư tưởng sẵn có mà anh ta phải góp phần
đánh thức những khát khao, những niềm trắc ẩn của con người trên cơ sở
trình bày cảm nhận của mình về các giá trị.
 Thơ đương đại như bỏ lại sự khúc chiết; sự rõ ràng, rành mạch duy lý không còn được coi
trọng. Với việc cá thể hóa cao độ, bộc lộ khát vọng bản năng một cách
tối ưu, dẫn dến thơ ca có phần vô thức, ẩn ảo với cả những trực giác,
những tiềm thức con người mà vốn dĩ bị tư duy duy lý che lấp suốt nhiều
thế kỷ. Con người được phản ánh trong thơ ca giai đoạn này là con người
bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Hậu hiện đại: “được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người xã hội, con người
với lịch sử, con người của gia đình gia tộc, con người với phong tục,
với thiên nhiên, với những người khác với chính mình… được khám phá, soi
chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống
tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và
dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính
nhân loại phổ quát”
 [38].
b.      Về hình thức:
Về thể loại, trong đời sống thơ ca đương đại, thơ tự do luôn chiếm ưu thế,
thậm chí áp đảo các thể thơ khác. Điều này khẳng định khả năng vượt
trội của thể thơ trong việc cho phép nhà thơ tự do triển khai tự do hơn
những phức hợp cảm xúc cá nhân, tổ chức nhịp điệu linh hoạt hơn, mở cửa
cho chất văn xuôi vào thơ, đồng thời cho thấy tính hiện đại trong thơ.
Các thể thơ truyền thống như thơ lục bát, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ vẫn tồn tại
những đã được nới lỏng cấu trúc. Ở thơ 5 chữ và 7 chữ, tính “điệu nói”
được gia tăng thêm một bước nữa, cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều
hơn vần, giọng điệu thơ ít gân guốc hơn, các liên tưởng thơ ít tuân theo
quan hệ nhân quả hơn. Thể thơ lục bát được cách tân về trình bày văn
bản và giọng điệu:
Ta tìm
tịch lặng trong không
hương
trầm
ngâm
khói
mỏi lòng
chồn chân.
 
Mệt nhoài
dạt bước phù vân
chuông
gieo
một tiếng
trong ngần vào ta
(Nguyễn Anh Vũ)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:37 PM | Message # 3
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Chính sự thay đổi về thể loại, thơ đương đại cũng bỏ lại phía sau những quán tính truyền thống. Thơ đương đại hầu như vắng bóng những khổ
thơ vần luật ổn định, mà viết theo nhịp điệu của tâm hồn, nhịp điệu của
cảm xúc, sự đa dạng với những câu thơ trúc trắc, mang tính hội thoại
cao.
Ngoài đổi mới thể loại thơ cùng với vần, niêm luật, nhịp điệu, hình thức biểu hiện trong thơ cũng được đổi mới. Cấu trúc ngôn ngữ
trong một số bài thơ được biểu hiện theo dạng khổ hai câu như Đồng dao cho người lớn của Nguyễn Trọng Tạo, Giọt trời của Nguyễn Duy và nhiều bài thơ của Lê Đạt; hoặc khổ ba câu như rất nhiều bài thơ của nhà thơ Lê Thị Mây: Giọt lệ, Trao nhẫn, Im lặng, Nỗi buồn, Cây gai tàn, Đêm tối,… Theo hướng tăng cường chức năng biểu đạt và mở rộng sự biểu đạt bằng
cách sử dụng cấu trúc thơ. Nhiều bài thơ có cấu trúc mới lạ biểu hiện ở
cách ngắt câu xuống dòng đặc biệt, được xếp hình bậc thang, vắt dòng,
hoặc trình bày lạ mắt:
chia cho em một đời thơ
một lênh đênh
                             một dại khờ
                                                     một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm
(Chia - Nguyễn Trọng Tạo)
Cấu trúc thơ có sự đổi mới tạo nên sự chia cắt, ngắt khoảng của từ theo
nhiều cách khác nhau tạo độ vang trong thơ và có thể diễn đạt nhiều điều
chất chứa bên trong tâm hồn con người không thể giãi bày:
Mưa ngâu
đêm
nghe lâu
buồn thêm…
buồn thêm!
Cỏ trần gian
lắng im
an ủi
Thương tình yêu đắm say
mang tội
Thương con người dễ lầm lỗi
khổ đau…
(Buồn - Nguyễn Bình Phương)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:37 PM | Message # 4
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Hiện nay, các nhà thơ lại tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng ấy nhiều khi không dễ
nhận ra bằng sự cảm nhận thông thường.
Điểm đáng chú ý về hình thức cấu trúc ngôn ngữ thơ sau năm 1986 là xuất hiện nhiều trò chơi ngữ
nghĩa với tổ chức âm/nghĩa mới lạ, độc đáo. Cách xếp đặt ngữ âm trong
thơ giai đoạn này được tác giả Nguyễn Đăng Điệp ví như một “trò chơi”. Một số cây bút có nhiều bài thơ tiêu biểu cho cách tổ chức trò chơi ngữ
âm này là Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Lê Đạt,… Trò chơi
ngữ âm trong thơ đã góp phần tạo nên sự thú vị cho người thưởng thức:
Mây may thu mắt thủy mặc đồ
Nét thảo biếc đậm mày quá khứ
Nắng nhạt bước thon hè tình sử
Jin xổ dài
      khăn chấm đỏ
                  bụi mưa
(Thủy mặc – Lê Đạt)
Tuy nhiên, một khi quá lạm dụng, hình thức tổ chức ngôn ngữ này sẽ gây phản
cảm, người đọc khó chấp nhận, như bài thơ sau của nhà thơ Dương Tường:
Noel lụa len len đêm tổ tông truyền
Hồ bờ len người len đèn len liễu loan mắt
Loen màu nhen răm răm gaine men
Em về phố lặng
Lòng đổ chuông
llềnh lluềnh nước
lli
lluâng
lloang llưng
llênh llinh lluông buông boong
ad lllibitum
(Noel 1  Dương Tường)
Một trong những đặc điểm thơ đương đại, đó là nhà thơ đã chú trọng đến vấn
đề biểu đạt của ngôn ngữ. Trường từ ngữ trong thơ đã được mở rộng đến
gần như không có giới hạn nào. Những từ thông tục, khẩu ngữ, biệt ngữ đã
có mặt khá thường xuyên trong thơ của nhiều tác giả, nhất là lớp trẻ.
Thơ ca trở lại vị trí thực của nó giữa cuộc đời và nhu cầu tự biểu hiện
của con người, đặc biệt nhấn mạnh bản chất nghệ thuật ngôn từ của thơ,
xem việc làm thơ là “làm chữ”… Hai con đường làm mới ngôn ngữ thơ: Một
là đưa vào thơ những từ ngữ mới xuất hiện trong đời sống, hai là tạo
nghĩa mới cho từ cũ và tạo hẳn chữ mới.

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:37 PM | Message # 5
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
CHƯƠNG 3: NHỊP TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Nếu vần thơ dường như ít xuất hiện, phân bố tự do, linh hoạt hơn trong thơ
đương đại thì nhịp thơ lại càng quan trọng hơn, nhằm nổi bật tính hòa âm
của chữ trong thơ. Có thể, thơ không thể hiện rõ quy luật nhịp điệu,
nhưng thực chất trong logic hình thức của thơ, nó không bao giờ chối từ
nguyên tắc cấu trúc nhịp điệu. Bởi đây vốn dĩ tạo nên tính nhạc cho thơ,
đưa thơ, rõ hơn là thơ văn xuôi khác với văn xuôi. Thơ có thể không
vần, nhưng không thể không có nhịp điệu – quy luật nội tại của thơ. Sự
tồn tại của nhịp mang tính tất yếu, phổ quát, bắt buộc. Không có nhịp
thì chưa tạo thành thơ. Thơ đương đại có thể có câu dài, câu ngắn, mạch
thơ có thể liên tục hoặc ngắt ra nhiều câu ngắn, có thể trình bày theo
bậc thang hay bắc cầu. Nhưng dù có biến hóa thế nào đi nữa, thơ đương
đại vẫn giữ được sự hài hòa của nhịp điệu. Đoàn Ánh Dương từng cho rằng:
“Thơ đương đại có thể coi là thơ nhịp điệu” [7].
 1.2.  Mối quan hệ giữa nhịp thơ và cảm xúc tâm hồn của tác giả
Nhà nghiên cứu Trần Thiện Khanh cho rằng nhịp thơ được cấu trúc trên nền tảng dòng thơ: “Một dòng thơ ngắn có thể tương ứng với một khuôn nhịp. Nhưng thường thì một
câu thơ, dòng thơ có nhiều nhịp. Nhịp thơ không nhất thiết phải đều
đặn, cố định. Nhịp thơ đổi thay theo nhu cầu biểu hiện ý tình; theo
nhiệm vụ tái hiện sự vận động của sự vật, hiện tượng; theo
 ngữ điệu phát ngôn ở từng nhân vật. Mỗi dòng thơ, câu thơ được tổ chức theo quy
luật câu hát. Ngâm thơ cũng luyến láy, ngừng nghỉ, kéo dài và lướt nhẹ
một số âm tiết nào đó”
 [20].
Ngày nay, trong thơ Việt Nam đương đại, khi mà các thể loại thơ đan cài,
giao thoa nhau, nhà thơ có khi “viết như nói” thì nhịp điệu câu thơ
không còn bị ràng buộc chặt chẽ bởi những quy luật. Những nhịp thơ chẵn,
những nhịp điệu quen thuộc, những câu ngâm vịnh, những điệu ru mơ,
những khúc tâm tình, với những gì yên ả, nồng nàn, đẹp đẽ nên thơ ít
xuất hiện hơn. Thay vào đó, nhịp thơ tồn tại tự do trong tổ chức câu
thơ, đoạn thơ và bài thơ, do cảm xúc của nhà thơ chi phối. Nhịp thơ
đương đại là nhịp lòng của nhà thơ, nhịp của tâm hồn rung lên trước hiện
thực, sẵn sàng bộc lộ những cảm xúc, những suy ngẫm về cuộc đời.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã tiến hành phân biệt các khái niệm hữu quan
như ngữ điệu, nhịp điệu, nhạc điệu. Ở đấy, tác giả cho rằng nhịp điệu
chịu sự chi phối của giọng điệu, giọng điệu được bộc lộ qua nhịp điệu và
ngữ điệu bởi bất cứ câu thơ nào cũng chứa điệu hồn tác giả. Theo đó,
tìm hiểu nhịp điệu trong thơ là cần thiết, và có thể được tiến hành ở
các cấp độ: sự bố trí các âm vị, hình vị trên dòng ngữ lưu và trên bề
mặt văn bản thơ; hoặc mối quan hệ giữa việc phát ngôn với biểu ý khi làm
thơ, đọc thơ. Điều này cho thấy, tìm hiểu nhịp điệu khó có thể tách rời
với ngôn điệu và giọng điệu. Câu thơ dài ngắn, nhịp thơ nhanh – chậm
phụ thuộc vào hơi thở, điệu hồn của người sáng tạo. Giọng điệu, ngôn
điệu thế nào thì nhịp thơ thế ấy. Không phải ngẫu nhiên khi giọng điệu
chậm rãi, buồn bã thì nhịp thơ rời rạc; khi giọng điệu hào hùng thì nhịp
thơ gọn chắc.
Như vậy, nhịp thơ đương đại chính là nhịp diễn xuất, nhịp tự do của trái tim đương đại, là nhịp của chủ thể, biểu hiện
rõ ràng cá tính của chủ thể, bộc lộ tư duy và cảm xúc sống động của chủ
thể.
Nhìn vào các tác phẩm của các nhà thơ đương đại, ta thấy thơ của Trần Dần,
Đặng Đình Hưng, Dương Tường, nhóm Mở miệng… là thơ hướng đến các trò
chơi ngôn ngữ; thơ của Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến, Vi
Thùy Linh,… là thơ hướng đến các trò chơi ngữ nghĩa. Thơ của Nguyễn
Trọng Tạo hướng đến trò chơi diễn trò như đồng dao và hướng về thể thơ
lục bát truyền thống của dân tộc. Trong khi đó, thơ Ly Hoàng Ly lại
hướng đến trò chơi trình diễn, dán ghép,... Ở mỗi trò chơi, nhịp điệu
thơ được hiểu như là vận động của sinh thể nghệ thuật đều bộc lộ những
điểm độc đáo, mới mẻ, mang đậm dấu ấn phong cách của nhà thơ.
Thử đọc những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo, ta thấy nhịp thơ 2 – 3 xen kẽ
nhau trong những dòng thơ đã đẩy hơi thơ nhanh, mạnh và dồn dập hơn. Cái
tình yêu mà Nguyễn Trọng Tạo muốn thể hiện được những nhịp thơ nhanh
mạnh ấy làm bật dậy những cảm xúc mãnh liệt. Câu thơ cuối với nhịp được
giãn ra dài hơn, chính là quá khứ êm đềm đang hiện về trong tâm tưởng
của Anh và Em:
Xanh nụ hôn// khẽ chạm// mỉm cười xanh
hồn xoáy lốc// nồng nàn// đường cong// thân thể bão
em// như em// mười bảy
anh// như vừa hai mươi
lá còn xanh// đêm Hoàng Việt trinh nguyên// âm nhạc// bỗng xanh về
(Xanh - Nguyễn Trọng Tạo)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:38 PM | Message # 6
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Với Nguyễn Trọng Tạo – con người đa tài khi bén duyên với cả văn thơ và âm nhạc – ông cứ “nâng trên tay nhng âm thanh, nhp điu kết thành con ch luôn luôn ng nguy, chp chi v cánh ch định bay lên mà bay xa, khoan thai chng chc như chng có gì vi vã. Anh đã đi nhng bước chân vng chc và đĩnh đạc ca s mnh lúc chm lúc nhanh, lúc nh nhàng, lúc nng trĩu lướt trên s phn cuc sng mi con người, tu trung là nhng bước đi định sn rt ráo riết và quyết lit [4]:
tạ từ.// Ai// tạ từ// tôi
chập chờn// Tiên Nữ// nói cười xa xăm
 (Tạ từ - Nguyễn Trọng Tạo)
 Nhà thơ tạo ấn tượng thính giác bằng cách đổi cấu trúc nhịp thơ 2/2/2 ở câu
6 sang nhịp 2/1/2/1 khiến tiết tấu câu thơ dường như rất mới, thấy được
tâm trạng vừa đứt quãng, vừa dồn nén trong phút tạ từ. Trong một đoạn
khác, Nguyễn Trọng Tạo lại sử dụng thơ theo nhịp đứt khúc, tạo ấn tượng
mới trong cấu trúc đoạn:
em!
bức tranh// tình không năm tháng
em!
mùa xuân// chiếm hữu// sắc màu tôi
(Bức tranh tình – Nguyễn Trọng Tạo)
Thơ Nguyễn Trọng Tạo mang tâm hồn đa mang, sầu cảm nên thơ của ông chứa đầy
nhạc tính. Và những nhịp lẻ, đứt khúc chỉ là số ít trong thơ ông.
Nguyễn Trọng Tạo làm thơ du dương, vang động đầy tính nhạc, đầy những
rung động tinh vi khi hầu hết sử dụng nhịp chẵn của thơ ca truyền thống,
của cái loại nhịp gắn liền với ngôn điệu Việt Nam:
Có cha// có mẹ// có trẻ// mồ côi
Có ông trăng tròn// nào phải mâm xôi

Có thương// có nhớ// có khóc// có cười
Có cái chớp mắt// đã nghìn năm trôi
(Đồng dao cho người lớn – Nguyễn Trọng Tạo)
Hay:
c may// không hn// mà xanh
tim ta// khâu vá// cho lành nh thương
ngang tri// hoa cỏ// đẫm sương
lanh quanh sân thượng// mà thương cánh đồng
                                                   (Cỏ may trên sân thượng ­– Nguyễn Trọng Tạo)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:38 PM | Message # 7
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Câu, chữ lục bát cứ ngân nga, dặt dìu khiến người đọc như không dứt ra được
giai điệu nhẹ nhàng, trầm lắng mà tự nhiên, da diết của nó. Câu thơ mang
nhịp chẵn cứ trôi một cách ung dung thư thái, nhưng lại mang nhiều lắng
đọng, gợi ra trước mắt những suy nghĩ nhẹ nhàng nhưng không kém phần
khiến người đọc phải trăn trở. Nguyễn Trọng Tạo đã đến với thơ đương đại
bằng những thể thơ lục bát truyền thống mang hơi thở của đương đại, nội
dung của đương đại. Những nhịp chẵn, nhịp lẻ thổn thức trong thơ ông
như chính trái tim ông vậy: trăn trở và suy nghĩ về cuộc đời, và đem cái
trăn trở ấy gieo vào lòng người đọc, lúc nhẹ nhàng an nhiên, lúc lại
trúc trắc gập ghềnh, khiến độc giả không khỏi cuốn theo những suy nghĩ
của nhà thơ.
Không nhẹ nhàng như nhịp chẵn trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, nhịp trong thơ Vi Thùy Linh biến hóa đa dạng, khôn lường, thể
hiện sâu sắc giọng điệu của một nhà thơ với tiếng nói của tự do, của
ngổn ngang và rậm rạp một nguồn cảm xúc dữ dội, cuồng nhiệt, của bản
năng, của ý thức về phái tính, mang âm hưởng nữ quyền cao.
Vi Thùy Linh dùng nhịp thơ chẵn, nhịp 2/2, nhưng không phải nhịp của sự êm
ái, mà là nhịp mang sức nặng mạnh mẽ của sự phân đôi, sự chia cách. Một
bên là Em với nỗi khát khao trên con đường tìm Anh, một bên là Anh xa
hơn “mặt trời” để em vẫn mãi đuổi theo:
 Khóc người// mệnh bạc
Em // vẫn tìm Anh
Tìm trong// bóng đêm
Tìm ngày// nắng rát
Hơi thở// cũng lạnh
Mặt trời// mặt trời
Mặt trời// quá xa
Anh// còn xa hơn
Em tìm// bằng tim
Anh// đừng đi nữa
 (Nhật thực – Vi Thùy Linh)
Hay đôi khi quay về nhịp chẵn 2/2 vui tươi, hồn nhiên, trong sáng của thơ đồng dao:
Nu na// nu nống
Trái đất// nằm trong
Trẻ con// quay vòng
Nối liền// thế giới
 
Mùa đông// thật ấm
Noel// cho em
Noel //lung linh
Binh boong// náo nức
Xoa dịu// đớn đau
Vỗ về// thiếu thốn
Xua tan// tủi sầu...
 (Giáng sinh con – Vi Thùy Linh)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:38 PM | Message # 8
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Bên cạnh đó là nhiều bài thơ với những dòng thơ dài, nhịp thơ được kéo giãn để thể hiện trọn vẹn mạch cảm xúc đang dâng trào của thi sĩ:
Nếu cả thế giới// loài người đều yêu nghệ thuật và thơ hay, // sẽ không còn cái ác//
Nhốt lại những trái ngang,// đổi đời cho những bà goá bụa// những ông trắng
tóc héo da cô độc,// những người thất cơ lỡ vận đói khát thiên thai tha
hương,// những kẻ lưỡng tính mất phương hướng,// những nông dân mất mùa
ngón chân gầy như củ lạc còi bấm vào ruộng cạn//

Trái đất ốm yếu vì văn minh//
Thế giới thiếu chất thơ// nên loài người bi kịch//
Thế giới khô cằn// thế giới cần khôi phục
Thi sĩ là hoàng đế siêu năng của cuộc đời// không bao giờ thiếu được!
(Hãy phủ thơ khắp thế giới của em – Vi Thùy Linh)
Lại có những bài thơ với cách đột nhiên xuống dòng với nhịp thơ bị ngắt đứt
từng nhịp một, làm ta sửng sốt, ngỡ ngàng trước cảm xúc của nhà thơ:
 
Em//
               Rơi//
                           Xuống//
                                       Theo từng tiếng nấc// bơ vơ
 (Nơi ánh sáng – Vi Thùy Linh)
Hay:
Em tức tưởi// trở về //khoảng trời bóng đỏ
Bóng// chèn nhau
vỡ
Lòng em
vỡ
Em lầm lũi// lại đến trước nhà Anh// nhặt xác// nỗi buồn vừa rơi
Đốt lên// thành lửa
Rồi đi
Sau lưng em// ngày nắng tắt
                                       (Từ phía ngày nắng tắt – Vi Thùy Linh)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:39 PM | Message # 9
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Nhịp thơ không liên tục, không đều đặn mà bị vỡ ra thành những phần mảnh, đan xen nhịp chẵn – lẻ, dài – ngắn, cho chúng ta thấy được tâm
trạng đau đớn, dằn vặt trong lòng người thiếu phụ.
Thơ của Ly Hoàng Ly là tiếng nói chân thành, tha thiết của một tâm hồn thiên tính
nữ dịu dàng nhưng cương quyết, mỏng manh nhưng mạnh mẽ. Vì thế, nhịp
trong thơ chị biến thiên khá đa dạng, nhịp chẵn xen kẽ nhịp lẻ một cách
linh hoạt:
Mỏng mòng mong// bánh xe
Xe// mỏng mòng mong// bánh xe
Gói mưa// vào lá chuối
Hôm sau// ra chợ bán
Lá chuối khô// mưa //mốc
Người bán hàng// mặt hốc
Gói đêm// vào lá chuối
Ban trưa// ra chợ bán
Lá chuối héo// đêm bay đi
Người bán hàng// ngơ ngẩn// ngẩn ngơ
(Mỏng mòng mong – Ly Hoàng Ly)
Hay lúc thì mạnh mẽ và cương quyết với nhịp thơ ngắn, lúc lại nhẹ nhàng dàn trải với những nhịp thơ dài:
Tôi muốn
Căn nhà tôi ở// tỏa hương ngào ngạt
Những cành lá trong vườn// giũ chất diệp lục lên da mặt
Để tôi// lúc nào cũng xanh men mét
Tôi muốn
Biến thành thiên thần xanh// trên cao bồng bềnh
Nhìn ổ trứng cuộc đời// nở trên những người thân của tôi
Trong căn nhà// ngộp hương hoa
Tôi sẽ chỉ nhìn
Và lặng im// vĩnh viễn
Tôi muốn
Đêm đào đất lên ăn // đất cào đêm xuống nuốt
Đất,// đêm// hòa làm một
Đen,// đen
Mù mịt
Sình sịch
Những cơn mê quất vụt!
(Tôi muốn – Ly Hoàng Ly)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:39 PM | Message # 10
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Với giọng điệu giàu suy ngẫm, nhịp thơ Nguyễn Quang Thiều cũng kéo dài ra như chính những nghĩ suy triền miên của ông. Những bài thơ của
Nguyễn Quang Thiều hầu hết đều chứa những câu thơ dài, nhịp điệu thư
thái, chất chứa nhiều tâm sự. Những nhịp ngắn, nhanh, mạnh mẽ, dứt khoát
hầu như rất ít xuất hiện trong thơ ông:
 
Đâu đấy//, một cánh bướm run rẩy//, trong hơi thở tháng Giêng
Một cánh bướm như không có// bởi mỏng hơn cả sự mơ hồ
Nhưng đã mở ra//, ở đâu đó//, một cánh bướm có thật
Không bởi màu sắc rực rỡ// mà bởi như hơi nước đang tỏa
 (Những cánh bướm – Nguyễn Quang Thiều)
Thơ triết lý Nguyễn Quang Thiều với những nhịp thơ dài tạo nỗi niềm man
mác, cái buồn da diết khi mong nhớ về một miền đất mẹ. Nhịp thơ dài đẩy
câu thơ dài ra hơn, như chính cái niềm mong nhớ không có điểm dừng:
Đâu đây// có tiếng nói mê đàn ông// bên mái tóc đàn bà
Đâu đây// thơm mùi sữa bà mẹ// khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây// những bầu vú con gái tuổi mười lăm// như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây// tiếng ho người già// khúc khắc
Những trái cây chín// mê ngủ// tuột khỏi cành// rơi xuống
Góc vườn khuya// cỏ thức một mình
(Bài hát về cố hương ­– Nguyễn Quang Thiều)
Như vậy, nhịp trong thơ đương đại là nhịp diễn xuất. Vì không bắt buộc theo
những khuôn nhịp cứng nhắc, nên nhịp trong thơ Việt Nam đương đại không
những trôi tự do theo cảm xúc của người sáng tác, mà nó còn thể hiện rõ
phong cách, giọng điệu riêng của từng nhà thơ. Đồng thời, ngược lại,
chính phong cách, giọng điệu và cảm xúc của nhà thơ là yếu tố chi phối,
quyết định nhịp thơ đương đại.
 1.3.  Những phương thức ngắt nhịp trong thơ Việt Nam đương đại
Thông thường nhịp điệu truyền thống bao giờ cũng có áp lực lớn lôi kéo người
đọc, nhất là người đọc không phải là nhà thơ. Theo quán tính cứ gặp
những thể thơ quen thuộc, trong tâm thức người Việt lại vang lên nhịp
điệu có sẵn 2/2 (thơ 4 chữ), 3/2 hay 2/3 (thơ 5 chữ), 2/2/3 (thơ 7 chữ),
2/2/2… (thơ lục bát). Chạm vào thơ đương đại với tinh thần cách tân,
mang nhiều cái mới của phương Tây, cùng với đó là yêu cầu đọc bằng mắt
bởi sự phát triển của “thế giới phẳng” và sự đổi mới “con mắt người
thơ”, do đó, như một sự cách tân về phương thức tổ chức tác phẩm, cấu
trúc nhịp thơ cũng thay đổi, cũng hòa tan vào toàn bộ cơ thể tác phẩm
nghệ thuật thơ. Dù trong thơ tự do, thơ lục bát hay những thể thơ 4 chữ,
5 chữ, 7 chữ, nhịp thơ đương đại vẫn không rõ ràng, không theo khuôn
khổ quy củ, mà bị chi phối bởi giọng đọc, điểm dừng ngữ nghĩa. Ngoài 10 nguyên tắc ngắt nhịp đã nêu ở chương một, nhìn một cách tổng
quát, nhịp thơ đương đại được chi phối bởi những hình thức ngắt nhịp
hiện đại trên ba cơ sở chính: hình thái văn bản, cú pháp và dấu câu. Đây
là những hình thức ngắt nhịp phổ biến và là những nét mới trong đặc
điểm nhịp thơ đương đại.

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:40 PM | Message # 11
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
1.3.1.      Ngắt nhịp trên cơ sở hình thái văn bản Nhịp điệu được kết hợp bởi những chi tiết thị giác và âm thanh ngôn ngữ. Khi
cú pháp cũng như những niêm luật trong thơ bị phá vỡ, ngôn ngữ thơ sẽ
rơi thành từng phân mảnh. Nó mất đi cái nền để chuyển động, và như một
quán tính, nó sẽ hòa nhập cùng dạng thức thị giác, nương theo chiều dài
của hơi thở và âm vực mỗi âm tiết để khơi dậy cảm xúc và tưởng tượng bên
trong nhà thơ và người đọc.
Ảnh hưởng từ chủ nghĩa Hậu hiện đại cũng như những lối thơ kết hợp các thể loại nghệ thuật, cùng với đó là
nhu cầu đọc thơ bằng mắt của thời đại công nghệ thông tin, các nhà thơ
càng lúc càng “để ý” hơn tới hình thức thơ, tận dụng hình thái văn bản
thơ để hỗ trợ đắc lực cho ý thơ của mình.
Chính vì thế, ở thơ đương đại, ngoài sự kết hợp giữa âm thanh âm tiết và cú pháp văn phạm,
còn có thêm nhịp điệu thị giác. Đọc thơ đương đại, bước đầu phải nhìn và
ghi nhớ hình dạng bài thơ, cách ngắt dòng, dãn dòng, khoảng cách của
từng dòng… khi nghe, hình dạng bài thơ hiện ra trong ký ức và người đọc
cùng một lúc tiếp nhận được cả nhịp điệu thị giác lẫn thính giác.
Vận dụng hình thái văn bản thơ để phân phối nhịp điệu trong bài thơ là việc
khá phổ biến trong thơ đương đại, nhất là những cây bút viết theo chủ
nghĩa Tân hình thức. Trên trang mạng xã hội của thơ Tân hình thức xuất
hiện khá nhiều bài thơ được trình bày theo dạng hình tròn, hình
vuông,... với những ký tự “lộn xộn” như ngôn ngữ mật thư khiến người đọc
khó tiếp nhận; một số bài thơ được trình bày theo dạng bậc thang liên
tiếp như sau:
Tao không muốn mầy làm thơ tình buồn
Tao không muốn mầy làm thơ tình 
Tao không muốn mầy làm thơ 
Tao không muốn mầy làm 
Tao không muốn 
Tao không
Tao
T 
(Ở nơi ấy, nhà thơ - Cảm tác từ Apghanistan) 
Hình thái thơ bậc thang theo từng bậc ngắn dần có tác dụng thúc đẩy nhịp thơ
ngắn dần, hơi thở thơ càng lúc càng nhanh, càng gấp khiến người đọc có
cảm giác tức nghẽn nơi cổ họng, không tìm ra được lối thoát. Đó cũng là
cảm giác giằng xéo, đấu tranh giữa hai thái cực: không muốn nhưng mà
muốn đấy, muốn đấy nhưng mà lại không muốn.
Tuy nhiên những hình thái văn bản thơ như đã nhắc ở trên không chiếm đa số và nhiều hình
thái còn chưa được sự đón nhận của đa số những người làm nghệ thuật.
Phương thức được sử dụng nhiều nhất để hỗ trợ cho nhịp điệu của thơ
đương đại đó chính là cách trình bày thơ theo dạng bậc thang không liên
tiếp. Qua khảo sát 659 bài thơ của bốn tác giả, có 39 bài thơ sử dụng
cách trình bày dạng bậc thang, tạo nên 137 dòng thơ bậc thang, chi phối
quy luật ngắt nhịp trong thơ đương đại.
Chúng ta bắt gặp cách trình bày thơ bậc thang trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Dù trong thơ
Nguyễn Quang Thiều, những suy ngẫm về đời cùng những nhịp thơ dài với
câu thơ văn xuôi rất hiếm khi xuất hiện:
Ra đi từ hồ nước cũ
Con đường
Con đường
Con đường
(Lễ tạ - Nguyễn Quang Thiều)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:40 PM | Message # 12
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Lối thơ bậc thang này khiến nhịp thơ được ngắt ra rõ ràng, dù vẫn là nhịp 2/2/2 ở ba dòng cuối, nhưng từ cách nhìn đến cách phát âm, ta có
cảm giác nhịp thơ sau dài hơn nhịp thơ trước, nối tiếp nhịp thơ trước.
Nhờ đó mà tính nhạc được vang lên ngân nga, hình ảnh con đường cứ dài ra
dài ra, con đường này nối con đường kia đến xa tít.
Nguyễn Trọng Tạo đến hiện đại từ truyền thống, dù lựa chọn sự trở về với “ngôn
ngữ thơ ca nhịp chẵn của dân tộc”, vẫn làm thơ ở thể lục bát như một cơ
duyên tiền định, Nhưng ở trên nền thơ lục bát ấy, ông không chỉ làm mới
nội dung thơ mà còn lạ hóa khuôn hình sáu tám bằng hình thức xuống
thang:
Như là// tôi đã một lần
nói yêu em 
dọc mùa xuân
hai người
(Thư tình gửi người không quen – Nguyễn Trọng Tạo)
Hình thức xuống thang của câu tám không chỉ là cách làm lạ hóa mang tính
hình thức mà là hình thức mang tính nội dung, tạo nên hiệu ứng từ cách
ngắt nhịp đến sự thay đổi giọng đọc. Những câu chữ tác động đến giọng
điệu, giọng điệu lại khơi bật những cung đường cảm xúc. Và do đó, cảm
xúc được truyền trực tiếp từ ý thơ đến người đọc. Người đọc không chỉ
cảm nhận được tình yêu có chút dè dặt nhưng sâu lắng của nhân vật trữ
tình qua ý nghĩa của ngôn từ mà còn qua ấn tượng thị giác.
Những biến chuyển trong “phép chia” lạ thường dưới đây không chỉ tác động đến
chúng ta qua ý nghĩa ngôn từ mà còn qua con mắt nhìn văn bản thơ:
chia cho em // một đời tôi
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn //cái xác không hồn
cái chai không rượu //tôi còn // vỏ chai
 
chia cho em //một đời say
một cây si
với
một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa //đam mê
trời chang chang nắng // tôi về héo khô
(Chia – Nguyễn Trọng Tạo)
Ta còn bắt gặp hình thức thơ bậc thang không liên tiếp này khá nhiều trong thơ Vi Thùy Linh và Ly Hoàng Ly:
Không biết lạc vào đâu
Con
rơi
xuống
dòng sông đỏ đang chuyển dịch bóng những vì sao
(Những đối lập – Vi Thùy Linh)
                           Đổ
chiều
từ
trên
cao
Sài Gòn// theo lối về // men dần lòng chảo
(Thung lũng Anh và Em – Vi Thùy Linh)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:40 PM | Message # 13
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Những bậc thang thơ đã hình thành từng nhịp 1, tạo nhịp thơ gọn, nhanh, đẩy hình ảnh thơ lên sự chơi vơi, hụt hẫng giữa không trung không
có lấy một điểm tựa. Thể hiện mạnh mẽ cảm xúc của nhà thơ.
 1.3.2.     Ngắt nhịp trên cơ sở cú pháp
Trên cơ sở cú pháp, ngoài những nguyên tắc ngắt nhịp truyền thống theo cấu
trúc ngữ pháp của dòng thơ như đã đề cập ở chương 1, trong thơ đương
đại, chỗ ngắt nhịp còn được chú ý bởi những yếu tố vắt dòng và yếu tố
điệp cú pháp.
1.3.2.1.          Yếu tố vắt dòng Thơ đương đại không còn kết cấu khổ vuông như thời kì trước đây nữa mà hầu
như ở các bài thơ đều có hình thức thể hiện là những câu thơ dài ngắn
đan xen. Hiện tượng vắt dòng diễn ra trong 219 bài thơ trên tổng số 659
bài thơ được khảo sát, xuất hiện trên 1782 dòng thơ. Khi dùng cách vắt
dòng, nhà thơ phá đi cách đọc dừng lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc
đẩy đi tìm lại phần đã mất của câu thơ với tốc độ đọc nhanh hơn, và phải
đọc bằng mắt. Cái khoảng trống được tạo ra bởi hai thành phần cấu trúc
gắn liền nhau của dòng thơ. Thế nhưng cái khoảng trống lại chẳng trống
không vì những chuyển động không ngừng của cái biết và chưa biết, đè lấp
lên nhau. Lối viết vắt dòng tạo nên sự đột biến cảm trong cảm xúc thơ.
Các khoảng lặng gây sự chú ý kéo dài. Điều đó dẫn tới trường hợp có
những bài thơ trong tập thơ không có lấy một chữ viết hoa dù là chữ đầu
dòng, đầu câu. Thơ đã bật lên từ sự vặn vẹo và phức tạp của văn phạm và
cú pháp, tạo thành nhịp điệu thơ.
Ta hãy đọc một đoạn thơ của Ly Hoàng Ly:
Nhạc cuốn vào người// sóng
Nhạc xiết lên da thịt // như dây thép
Không nói không rằng
Những son môi // sượt miệng Heineken
Xanh sóng sánh
để lại chất
dính dính
(Discotheque - Ly Hoàng Ly)
Nếu không có sự vắt dòng ở bốn dòng cuối, có lẽ người đọc dễ ngắt nhịp như sau: “Những son môi// sượt miệng Heineken xanh óng ánh// để lại// chất dinh dính”. Và khi đó, câu thơ sẽ không mang được nhịp điệu thơ, không có chất thơ,
mà mang đậm màu sắc của văn xuôi. Một câu thơ chẳng có gì đặc biệt. Tuy
nhiên, sử dụng phương thức vắt dòng, Ly Hoàng Ly gợi ra nhịp điệu của
hồn thơ, tạo một sợi dây liên kết nối giữa tác giả và người đọc, nhấn
mạnh hình ảnh thơ “xanh óng ánh” và trạng thái “dinh dính”. Chính hai
hình ảnh được nhấn mạnh này làm toát lên tính chất của một đêm nhạc
disco với những điệu nhảy, những cảm xúc da thịt.
Đọc bài thơ Lô Lô, những cảm xúc căng thẳng, dồn nén, đứt đoạn được thể hiện một cách rõ ràng
trong việc đếm những hạt mưa. Chị không đếm theo nhịp “hai mốt// hai hai// hai ba//..” mà lại đếm theo nhịp “hai// mốt// hai// hai// hai// ba//...”:
 Đêm nay có bao nhiêu hạt mưa nhỉ// một – //hai –//ba
bốn –// năm – //sáu – //bảy
tám - //chín 
mười – //mười một –// mười hai – //mười ba – //mười bốn – //mười lăm – //mười sáu – //mười bảy 
mười tám
mười chín – //hai mươi 
hai 
mốt
hai 
hai 
hai 
ba 
hai 
bốn 
hai 
lăm
hai 
sáu 
hai bảy //hai tám //hai chín
Chỉ có hai mươi chín hạt mưa rơi //cũng thành bão rối
Hai mươi chín hạt mưa rơi //cũng làm đầy sắc đêm
(Lô lô – Ly Hoàng Ly)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:41 PM | Message # 14
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Trong suốt bài thơ “Cầu nguyện ở thánh đường Thomas More”, những câu thơ vắt dòng trải dài hết tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều:
Thế gian// những dòng sông chảy,// những cây thông thì thầm,// những đứa trẻ khóc,// những chàng trai chết,// những đàn bà//
sợ hãi,// những ô cửa chạy trốn vào những hốc mắt.//
Thánh đường Thomas More// ngọn nến run rẩy.// Những ngôi sao//
xa xôi.// Một con đường ngập máu// một bàn tay nhỏ bám chặt những ngọn cỏ như bám tóc người mẹ.//
 
Thế gian// vẫn trôi một nửa trong bóng tối//. Một con chim//
trong lùm cây không ngủ// đều đều tiếng kêu buồn bã.//
Những người thiên chúa giáo,// những người hồi giáo,// phật giáo// vẫn rì rầm//
lời nguyện cầu// và // người đàn ông xa lạ vẫn đứng trong góc tối thánh đường// đôi mắt khép lại như thiếp ngủ.
(Cầu nguyện ở thánh đường Thomas More – Nguyễn Quang Thiều)
Giữa những câu thơ kéo dài như văn xuôi, nhịp thơ cũng kéo dài, Nguyễn Quang
Thiều đã sử dụng phương thức vắt dòng, tạo những nhịp thơ ngắn xen kẽ
với ý nghĩa thơ bị đứt đoạn. Người đọc vừa phải dừng lại, vừa phải đọc
nhanh hơn để đi đến ý thơ còn bỏ ngỏ. Nhịp thơ dài ngắn đan xen đã khiến
câu thơ có điểm nhấn, khiến cho những hình ảnh liên tiếp được nhắc đến
vẫn có cái bị gằn lại. Câu thơ trở nên trúc trắc hơn, thể hiện tâm trạng
hoang mang, đa cảm của nhà thơ.
Vi Thùy Linh khi thể hiện tình yêu nồng thắm, cô đã dùng cách thức thơ vắt
dòng, nhịp cứ vắt từ dòng này sang dòng khác, thể hiện sự khao khát có
Anh một cách trọn vẹn, để Anh không biến mất khỏi Em trong bất cứ giây
phút nào:
Cứ thế // họ
đối diện với cỏ
Sẽ thấm thía hơn //về đời sống của mình
Khi// em
Biết nhắm mắt lại
Ảo tưởng //Anh nằm bên
Em
có Anh //cả khi đóng mắt
Và khi //các đôi lứa
Biết quý //từng giây phút
Thế giới cứ mãi //mùa màng cứ mãi
(Phối cảnh của ký ức – Vi Thùy Linh)
Còn đây là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo:
Những bông tường vi //nở lẫn cùng hoa giấy
những con đường
đi
không dấu chân
viên sỏi nhỏ //trong gót giày //đêm đêm
sẫm nâu// và mòn trơn.
(Thành phố không người quen – Nguyễn Trọng Tạo)

 
NguyenHoangDate: Monday, 2013-09-09, 9:41 PM | Message # 15
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 2368
Reputation: 0
Status: Offline
Nguyễn Trọng tạo đã rất tài tình khi vắt dòng để tạo nhịp thơ theo: “những con đường// đi// không dấu chân”. Nếu để chúng nằm trong một dòng thơ, người đọc thường sẽ ngắt nhịp 4/3: “Những con đường đi// không dấu chân”. Như vậy, câu thơ sẽ không diễn đạt được ý mà nhà thơ hướng đến: ở con
đường nơi thành phố không người quen ấy, người khách lữ hành đang độc
bước, và dù anh có đi qua, con đường ấy vẫn không dấu chân anh, bởi nó
quá xa lạ, có đi qua thì cũng như là người mới tới. Nhịp thơ gắn liền
với ngữ nghĩa, mỗi cách ngắt nhịp lại cho ta một cách cảm thơ khác nhau.

Việc sử dụng câu thơ vắt dòng không chỉ giúp tác giả thể hiện hết những cung bậc cảm xúc của mình mà ở đây, như một yếu tố của nghệ
thuật sắp đặt, các tác giả thơ đương đại còn trình bày với người đọc
(người xem) một trò chơi câu chữ, những dòng thơ dài ngắn khác nhau với
những câu thơ được tách ra thành nhiều dòng biến người đọc trở thành
khán giả trước sân khấu. Cũng vì thế, nhiều tác phẩm thơ đương đại không
chỉ để ngâm, để nghe mà còn để đọc, để ngắm, để thấm thía từng câu chữ
và để tâm hồn mình lặng vào những cảm xúc của nhà thơ.
1.3.2.2.          Yếu tố điệp cú pháp Phương thức thứ hai hỗ trợ sự phân bố nhịp điệu đó chính là phương pháp điệp
cú pháp. Bài thơ được tổ chức bởi những dòng âm tiết, mỗi âm tiết là một
nhịp đập. Khi sử dụng phương pháp điệp cú pháp, số nhịp đập và âm tiết
sẽ cùng lặp lại, hình thành những chùm âm thanh, tạo sự hài hòa, vang
vọng.
Thực tế, trong thơ ca Việt Nam trước đây, phương pháp này đã xuất hiện, là một trong những biện pháp tu từ, tạo tiếng nhạc cũng
như sự liên kết chặt chẽ cho ý thơ. Tuy nhiên, phương pháp lặp cú pháp
thật sự phát triển mạnh mẽ nhất là trong thơ đương đại hiện nay. Khi mà
vần điệu được nới lỏng, hiệp vần ít hơn, câu thơ được buông thả tự do
thì việc lặp cú pháp là một trong những phương thức hình thành nên nhịp
điệu của bài thơ, có phần thay thế cho vai trò của vần đối với nhịp
điệu.
Khảo sát các tập thơ, người viết nhận thấy các nhà thơ thường sử dụng cấu trúc điệp trong các bài thơ, đặc biệt là ở thể thơ tự
do. Trong số 659 bài thơ có 102 bài thơ sử dụng cấu trúc điệp cú pháp.
Tỉ lệ số dòng thơ chứa cấu trúc điệp này chiếm 2,69% so với 17 169 dòng
thơ đã khảo sát.
Trong Bài ca những con chim đêm, cuộc sống được nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đổ đầy bằng từng đời sống riêng biệt của từng sự vật:
Như chỉ còn// con tàu nhỏ ngủ im lìm trên bến
....
Như chỉ còn //sóng rì rầm,// như chỉ còn// lại nước
Như chỉ còn// xa xăm thiêm thiếp những quả đồi
Như chỉ còn// gió đi qua rừng bạch đàn thẫm tối
...
 Như chỉ còn// một người già đau răng âm ỉ
...
Như chỉ còn //một mình tôi,// như chỉ còn// một bàn tay
(Bài ca những con chim đêm – Nguyễn Quang Thiều)

 
Forum » Tin tức » Văn học » Vần và nhịp trong thơ Việt Nam đương đại (Khóa luận của SV Phạm Nữ Nguyên Trà)
  • Page 1 of 2
  • 1
  • 2
  • »
Search: